Móng chân mọc ngược đâm vào thịt

MÓNG CHỌC THỊT LÀ GÌ?

Móng chọc thịt là tình trạng phổ biến khi góc hoặc cạnh của móng chân mọc đâm vào phần thịt mềm gây sưng, đỏ, đau và đôi khi nhiễm khuẩn. Tình trạng này thường xảy ra ở ngón chân cái.

KHI NÀO CẦN GẶP BÁC SĨ?

Hãy đến gặp bác sĩ khi :

  • Cảm thấy rất khó chịu trong ngón chân hoặc tình trạng đỏ tấy hay chảy dịch mủ dường như lan rộng,
  • Mắc bệnh tiểu đường hoặc các bệnh lý khác làm cho lưu lượng máu đến bàn chân kém hoặc bệnh nhân bị đau hoặc nhiễm trùng bàn chân.

NGUYÊN NHÂN

Các nguyên nhân thông thường gây ra tình trạng móng chọc thịt bao gồm:

  • Mang giày bó chặt các ngón chân,
  • Cắt móng chân quá ngắn hoặc cắt không thẳng,
  • Tổn thương móng chân,
  • Có móng chân cong bất thường.

BIẾN CHỨNG

Các biến chứng có thể trở nên đặc biệt nghiêm trọng nếu bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, vì bệnh này có thể làm máu lưu thông kém và tổn thương các dây thần kinh trong bàn chân. Vì vậy, một tổn thương dù nhỏ ở bàn chân như vết cắt, bong tróc da, mắt cá, chai chân hoặc móng chọc thịt cũng có thể không lành lại mà còn bị nhiễm khuẩn. Các vết loét hở khó lành (như loét bàn chân) có thể cần phẫu thuật để ngăn ngừa tình trạng thối rữa và chết mô (hoại tử). Hoại tử xảy ra là do sự lưu thông máu đến các bộ phận của cơ thể bị gián đoạn.

ĐIỀU TRỊ

Nâng móng: đối với trường hợp móng chọc thịt nhẹ (đỏ và đau nhưng không chảy mủ), bác sĩ có thể tiến hành nâng cạnh móng chọc thịt cẩn thận và đặt bông, chỉ nha khoa hoặc thanh nẹp bên dưới móng. Việc này giúp tách móng ra khỏi phần da bên dưới và giúp móng mọc bên trên cạnh da. Hằng ngày, bệnh nhân cần ngâm ngón chân và thay vật dụng y tế tại nhà.

Cắt bỏ một phần móng: đối với trường hợp móng chọc thịt nghiêm trọng hơn (đỏ, đau và chảy mủ), bác sĩ có thể cắt tỉa hoặc cắt bỏ một phần móng chọc thịt. Trước khi thực hiện thủ thuật này, bác sĩ có thể gây tê tạm thời ngón chân của bệnh nhân bằng cách tiêm thuốc gây tê.

Cắt bỏ móng và giường móng: nếu bệnh nhân bị tái phát tình trạng trên cùng một ngón chân, bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ một phần móng cùng với phần mô bên dưới (gọi là giường móng hoặc mầm móng). Thủ thuật này gọi là cắt bỏ một phần móng cùng với mầm móng bên hông ngón chân để ngăn ngừa phần móng này mọc trở lại.

CẮT BỎ MỘT PHẦN MÓNG CÙNG VỚI MẦM MÓNG BÊN HÔNG NGÓN CHÂN

Mô tả

Cắt bỏ một phần móng là một phương pháp rất hiệu quả, thường dùng để phẫu thuật điều trị móng chọc thịt và có thể do bác sĩ thực hiện. Phương pháp gây tê tại chỗ được sử dụng để gây tê ngón chân và cạnh móng chân cần cắt bỏ cũng như phần giường móng (mầm móng) để ngăn ngừa tình trạng tái phát. Một chất hóa học gọi là phenol được thoa lên mầm móng của nơi bị chọc thịt để ngăn ngừa móng mọc trở lại và chọc vào thịt sau này (thủ thuật này gọi là “điều trị móng chọc thịt bằng phenol”).

Bác sĩ có thể chỉ định kháng sinh nếu móng chân của bệnh nhân bị nhiễm khuẩn và có chảy mủ.

Các tình trạng rối loạn mạch máu nghiêm trọng sẽ bị chống chỉ định sử dụng kỹ thuật này.

Chuẩn bị thủ thuật như thế nào?

Mang giày xăng-đan hở ngón chân hoặc các loại giày tương tự trong ngày thực hiện thủ thuật. Điều này giúp tạo khoảng trống để băng bó và tránh áp lực đè lên ngón chân.

Thủ thuật được thực hiện như thế nào?

Bàn chân sẽ được sát khuẩn cẩn thận. Bác sĩ sẽ tiến hành gây tê tại chỗ bằng cách tiêm thuốc lidocaine vào ngón chân. Sau đó, bác sĩ sẽ dùng dây ga-rô tạo vùng không lưu thông máu để đảm bảo tác dụng của phenol.

Bác sĩ da liễu sẽ cắt phần đâm vào thịt mềm dọc theo chiều dài của móng chân: để lấy ra phần móng rộng khoảng 4 mm trên toàn bộ chiều dài móng. Sau đó, bác sĩ sẽ dùng một que gòn nhỏ, nhúng phenol 88% và thoa đều trong khoảng 1-2 phút để phá hủy phần giường móng.

Ngón chân sẽ được băng lại (với thuốc mỡ kháng sinh, băng gạc và băng dính).

Bệnh nhân sẽ có trải nghiệm gì sau thủ thuật?

Sau khi thực hiện thủ thuật, bệnh nhân thường ít đau (nếu có là do áp lực băng bó hoặc khi đi lại), tuy nhiên bác sĩ vẫn kê toa thuốc giảm đau thông thường. Việc dẫn lưu dịch thường được thực hiện từ hai đến sáu tuần sau khi điều trị móng chọc thịt bằng phenol. Hầu hết bệnh nhân có thể đi học hay làm việc trở lại ngay sau khi thực hiện thủ thuật.

Thủ thuật này rất hiệu quả (với tỷ lệ tái phát thấp: ít hơn 3%).