XOANG LÀ GÌ?
Xoang là các khoang chứa không khí nằm trong khối xương sọ và mặt. Các xoang này thông với hốc mũi qua các lỗ nhỏ gọi là lỗ thông xoang. Có bốn nhóm xoang: xoang trán (ở trán), xoang sàng (giữa hai mắt), xoang hàm (ở vùng xương gò má) và xoang bướm (ở giữa đầu, phía sau hai mắt).
Xoang có vai trò kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm của không khí đi vào phổi, bất kể thời tiết lạnh, nóng hay khô. Bình thường, xoang tiết ra dịch nhầy và nếu dịch nhầy này không thể thoát ra khỏi các xoang thì có thể bị nhiễm trùng gây ra viêm xoang.
VIÊM XOANG LÀ GÌ?
Viêm xoang là do xoang bị tắc nghẽn, viêm hoặc nhiễm khuẩn. Bệnh nhân thường sẽ than phiền bị nghẹt mũi, nặng ở vùng mặt, sổ mũi hoặc dịch nhầy bất thường. Các triệu chứng khác bao gồm đau đầu và mất khứu giác. Viêm xoang có thể khó chẩn đoán và bác sĩ chuyên khoa sẽ khám mũi của bệnh nhân bằng một ống soi nhỏ để giúp tìm ra nguyên nhân. Thông thường chụp CT xoang là cần thiết. Hầu hết bệnh nhân bị viêm xoang sẽ cảm thấy khỏe hơn mà không cần điều trị hoặc đáp ứng với điều trị bằng kháng sinh, thuốc nhỏ mũi, thuốc xịt mũi hoặc thuốc viên. Một số rất ít bệnh nhân bị viêm xoang nặng hoặc mãn tính có thể cần phải phẫu thuật.
PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI XOANG LÀ GÌ?
Phẫu thuật nội soi mũi xoang (còn gọi là Phẫu Thuật Nội Soi Chức Năng Xoang hoặc FESS) là các phẫu thuật điều trị vấn đề về xoang ở bệnh nhân bị nhiễm khuẩn xoang nặng hoặc mạn tính. Phẫu thuật nội soi mũi xoang được thực hiện bên trong mũi và không rạch da bên ngoài. Phẫu thuật mũi xoang nhằm mục đích loại bỏ tình trạng tắc nghẽn ở lỗ thông xoang (là các lỗ nhỏ nối xoang với mũi) để giúp dẫn lưu xoang, giảm sự khó chịu và ngăn ngừa nhiễm khuẩn.
PHẪU THUẬT ĐƯỢC THỰC HIỆN NHƯ THẾ NÀO?
Phẫu thuật thường được thực hiện khi bệnh nhân ngủ dưới gây mê toàn thân nhưng trong một số trường hợp cũng có thể được thực hiện chỉ bằng gây tê mũi (gây tê cục bộ). Tất cả các phẫu thuật đều được thực hiện bên trong mũi.
Bác sĩ phẫu thuật sử dụng một ống nội soi nhỏ đưa vào mũi để có thể nhìn thấy các hình ảnh trên màn hình. Các xoang bị bệnh được xác định và mở rộng bằng các dụng cụ đặc biệt. Nếu có bất kỳ polyp nào bên trong mũi thì sẽ được loại bỏ. Đường dẫn lưu dịch nhầy tự nhiên được mở rộng để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn và niêm mạc bị bệnh sẽ được loại bỏ. Phẫu thuật mất khoảng hai giờ tùy thuộc vào mức độ bệnh cần điều trị.
Phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn: đôi khi bác sĩ cần làm thẳng vách ngăn bên trong mũi để tiếp cận với xoang. Đây gọi là phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn, và sẽ mất thêm một giờ để thực hiện.
Phẫu thuật mở thông xoang sàng: xoang sàng được tạo thành từ nhiều khoang nhỏ chứa không khí, giống như một tổ ong. Tương tự như các xoang khác, xoang sàng có niêm mạc tiết ra dịch nhầy. Trong một số trường hợp, đường dẫn dịch nhầy bị tắc nghẽn. Bác sĩ có thể mở thông các vách xương mỏng ngăn các khoang chứa không khí giúp tạo ra một đường dẫn để dịch nhầy thoát ra dễ dàng hơn.
SAU PHẪU THUẬT
- Băng và nẹp: bác sĩ có thể đặt một miếng xốp ở mỗi bên mũi bệnh nhân để cầm máu. Các miếng xốp này được gọi là “băng” sẽ giúp bịt kín mũi bệnh nhân để bệnh nhân phải thở bằng miệng. Miếng xốp này sẽ được lấy ra trước khi bệnh nhân xuất viện. Điều này có thể làm cho bệnh nhân cảm thấy hơi khó chịu và chảy một ít máu nhưng thường sẽ nhanh chóng ổn định trở lại.
- Bệnh nhân có đau không? Thông thường bệnh nhân cảm thấy hơi nghẹt mũi và khó chịu trong vài tuần sau phẫu thuật. Bệnh nhân cũng có thể thấy nước mũi lẫn máu trong hai tuần đầu tiên – điều này là bình thường.
- Bệnh nhân có cần phải nằm viện không? Bệnh nhân nên nằm viện trong một ngày hoặc qua đêm và cần nghỉ ngơi tại nhà hai tuần sau đó.
- Bệnh nhân có cần phải tái khám không? Bác sĩ thường sẽ khám lại bệnh nhân tại phòng khám ngoại trú trong hai đến bốn tuần sau phẫu thuật để đánh giá hiệu quả của phẫu thuật.
SAU XUẤT VIỆN
- Xì mũi nhẹ nhàng trong tuần đầu tiên hoặc mũi có thể bắt đầu chảy máu.
- Bệnh nhân có thể được chỉ định dùng thuốc nhỏ mũi, xịt mũi hoặc bơm rửa để giúp thông mũi.
- Khi muốn hắt hơi, nên hắt hơi bằng miệng để bảo vệ mũi.
- Bệnh nhân có thể thấy nước mũi lẫn máu trong hai tuần đầu hoặc lâu hơn, điều này là bình thường.
- Bệnh nhân sẽ bị nghẹt mũi cả hai bên như khi bị cảm nặng trong 10 đến 14 ngày sau phẫu thuật và nếu cảm thấy khô miệng, thường xuyên uống vài ngụm nước có thể giúp cải thiện tình trạng này.
- Cố gắng tránh xa những nơi có bụi hoặc khói thuốc.
- Không nên chơi thể thao trong khoảng một tháng sau phẫu thuật.
- Tránh tất cả các hoạt động nâng nhấc vừa và nặng trong khoảng mười ngày sau phẫu thuật.
PHẪU THUẬT NÀY CÓ NGUY CƠ HOẶC BIẾN CHỨNG NÀO KHÔNG?
Có một số nguy cơ mà bệnh nhân phải hiểu rõ trước khi đồng ý phẫu thuật. Các biến chứng tiềm ẩn rất hiếm xảy ra. Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ phẫu thuật về khả năng xảy ra các biến chứng trong phẫu thuật của mình.
- Việc hỉ ra một vài đốm máu là bình thường nhưng tình trạng chảy máu mũi nghiêm trọng cũng có thể xảy ra trong vòng 12 ngày sau phẫu thuật. Nguy cơ này chỉ xảy ra ở 1/100 bệnh nhân.
- Khoảng 1/100 bệnh nhân có thể bị nhiễm khuẩn xoang và cần điều trị bằng kháng sinh.
- Các xoang rất gần với thành ổ mắt. Tình trạng chảy máu quanh mắt đôi khi là nguyên nhân gây tổn thương mắt. Việc phẫu thuật lại để cầm máu rất hiếm gặp. Nguy cơ xảy ra tình trạng này là rất thấp với khoảng 1/1000 trường hợp.
- Tổn thương tuyến lệ và rách mắt đôi khi có thể xảy ra và có thể tiến triển thêm.
- Các cơ vận động mắt đôi khi có thể bị tổn thương nhưng rất hiếm gặp. Nếu bệnh nhân bị tình trạng nhìn một thành hai hình thì có thể cần gặp bác sĩ nhãn khoa.
- Các xoang rất gần với xương mỏng ở đáy não. Tất cả các phẫu thuật mũi xoang đều có ít nguy cơ gây rò rỉ dịch từ khoang quanh não. Nếu biến chứng hiếm gặp này xảy ra, bệnh nhân sẽ phải nằm viện cho đến khi ngưng rò rỉ. Đôi khi cần phẫu thuật lại để ngăn chặn tình trạng rò rỉ này.
- Tình trạng giảm khứu giác có thể xảy ra sau khi phẫu thuật mũi xoang, tuy nhiên khứu giác có thể cải thiện theo thời gian.
- Vị giác có thể thay đổi nhưng hiếm gặp.
PHẪU THUẬT CALDWELL-LUC
Phẫu thuật nội soi mũi xoang có thể không dẫn lưu được hoàn toàn dịch nhầy, cắt bỏ niêm mạc bị bệnh hoặc các polýp trong xoang. Trong trường hợp này, bác sĩ phẫu thuật quyết định mở xoang qua hàm là cần thiết. Thủ thuật này gọi là phẫu thuật Caldwell-Luc (mở thông xoang hàm trong miệng), được thực hiện bằng cách rạch một đường nhỏ giữa môi trên và nướu rồi cắt bỏ một mảnh xương nhỏ ra khỏi thành trước của xoang hàm.
Mặc dù thủ thuật Caldwell-Luc an toàn nhưng cũng có thể có một số biến chứng như sưng mặt, đau và/hoặc tê mặt, đau và/hoặc tê răng/nướu, hiếm khi gây tổn thương cho dây thần kinh cảm giác của vùng má, môi trên và răng.