SỎI THẬN LÀ GÌ?
Sỏi thận là một khối rắn, cứng hình thành do khoáng chất hoặc muối axit kết tinh trong nước tiểu. Sỏi thận sau khi hình thành có thể nằm yên trong thận hoặc di chuyển đến niệu quản. Hầu hết sỏi thận đều nhỏ và thải ra ngoài theo đường tiểu. Tuy nhiên, một số khác trở nên khá lớn và không thể di chuyển ra khỏi thận. Đôi khi sỏi kẹt trong niệu quản, ngăn dòng chảy bình thường của nước tiểu và gây ra các triệu chứng. Trong cả hai trường hợp, cần điều trị để loại bỏ sỏi. Bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều sỏi cùng một lúc.
Bất kỳ ai cũng có thể bị sỏi thận. Sỏi thận ảnh hưởng đến 12% nam giới và 5% nữ giới. Hầu hết sỏi thận xảy ra ở độ tuổi từ 20 đến 60. Một số người tiếp tục bị sỏi thận trong suốt cuộc đời.
Đường tiết niệu
NGUYÊN NHÂN GÂY SỎI THẬN?
Nguyên nhân thường gặp nhất gây sỏi tiết niệu là do mất cân bằng thành phần của nước tiểu, có thể do lượng nước uống và các chất tạo sỏi có trong nước tiểu hoặc do thiếu một số chất ngăn chặn sự hình thành sỏi.
Các yếu tố tạo thuận lợi cho sỏi thận phát triển:
- Một số bệnh lý đường tiết niệu như hẹp khúc nối bể thận-niệu quản, thận đa nang, vôi hóa thận, trào ngược bàng quang-niệu quản, hẹp niệu quản, giãn ống thận, v.v.
- Nhiễm toan ống thận
- Cường cận giáp
- Một số bệnh lý đường tiêu hóa như bệnh Crohn, tiêu chảy mãn tính, kém hấp thu và phẫu thuật cắt dạ dày để giảm béo
- Bệnh u hạt
- Ngoài ra, nhiễm trùng đường tiết niệu có thể dẫn đến hình thành sỏi.
Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân bị sỏi thận không có nguyên nhân chính xác .
Khi nước tiểu chứa nhiều chất tạo tinh thể – như canxi, oxalat và axit uric – hơn nước và thiếu các chất ngăn kết dính tinh thể sẽ tạo môi trường lý tưởng cho sỏi thận hình thành.
Sỏi có thể được tạo thành từ các chất khác nhau. Chất tạo sỏi thường gặp nhất là canxi. Ngoài ra còn có sỏi axit uric, sỏi amoni urate, sỏi struvite (được hình thành để đáp ứng với nhiễm trùng đường tiết niệu) và sỏi cystine (được hình thành ở những người rối loạn di truyền gọi là cystin niệu). Các xét nghiệm máu và nước tiểu đặc trưng, gọi là “xét nghiệm chuyển hóa”, giúp hiểu rõ thành phần của nước tiểu để có các biện pháp điều chỉnh chế độ ăn uống giúp phòng ngừa sỏi.
TRIỆU CHỨNG CỦA SỎI THẬN?
Sỏi thận và sỏi niệu quản thường gây đau. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể thay đổi từ đau dữ dội đến không đau, tùy thuộc vào kích thước, hình dạng và vị trí của sỏi trong đường tiết niệu.
- Không có triệu chứng: một số sỏi không gây khó chịu hay các triệu chứng lâm sàng. Loại sỏi này gọi là sỏi không triệu chứng và kích thước thường nhỏ. Sỏi không triệu chứng thường được phát hiện trong quá trình chụp X-quang, siêu âm hoặc trong các quy trình chẩn đoán hình ảnh cho bệnh lý khác.
- Có máu trong nước tiểu nhưng chỉ phát hiện khi thử nước tiểu bằng que thử.
- Nhiễm trùng đường tiết niệu có thể xảy ra khi vi khuẩn có trong nước tiểu đọng lại trên chỗ tắc nghẽn.
- Sỏi không làm tắc niệu quản hoàn toàn có thể gây đau âm ỉ và tái phát ở hông.
- Đau quặn thận cấp tính.
ĐAU QUẶN THẬN CẤP TÍNH
- Do sỏi di chuyển từ thận xuống bàng quang. Nếu mắc kẹt trong niệu quản, sỏi có thể ngăn dòng chảy của nước tiểu, làm ứ nước trong thận và co thắt niệu quản gây đau dữ dội.
- Đau quặn thận cấp tính thường bắt đầu bằng cơn đau nhói và dữ dội ở thắt lưng, dưới xương sườn, sau đó đau từng cơn, thay đổi về cường độ và không giảm dù thay đổi tư thế. Cơn đau có thể lan xuống bụng dưới và bẹn hoặc cơ quan sinh dục ngoài khi sỏi di chuyển xuống niệu quản đoạn thấp.
- Thường kèm theo buồn nôn và nôn ói.
- Khi sỏi đến niệu quản gần bàng quang, bệnh nhân có thể muốn đi tiểu liên tục dù không có nước tiểu; điều này do sỏi kích thích đáy bàng quang.
- Sỏi ở vị trí này cũng có thể gây ra:
- Nóng rát khi đi tiểu
- Đau ở đầu dương vật hoặc niệu đạo
- Nhìn thấy máu lẫn trong nước tiểu.
- Khi có sốt và ớn lạnh, nghĩa là bệnh nhân đang có nhiễm trùng cần được điều trị bằng kháng sinh và giải áp.
Cơn đau quặn thận có thể kéo dài trong nhiều giờ. Tình trạng này sẽ giảm khi sỏi đã xuống bàng quang sau một khoảng thời gian.
ĐIỀU TRỊ ĐAU QUẶN THẬN CẤP TÍNH
Đau quặn thận cấp tính là một tình trạng cấp cứu y khoa.
Đau thường giảm sau khi dùng thuốc kháng viêm không steroid. Nếu bước điều trị đầu tiên này không hiệu quả, cần dùng thuốc giảm đau mạnh hơn là opioid. Thông thường, bác sĩ sẽ tiêm thuốc trực tiếp vào tĩnh mạch. Thuốc Lidocaine đường tĩnh mạch khá hiệu quả đối với những cơn đau quặn thận không đáp ứng với các liệu pháp giảm đau thông thường và bắt đầu có tác dụng trong vòng 3-5 phút. Theo phác đồ thì pha Lidocaine 120mg trong 100mL nước muối sinh lý cho chảy liên tục trong vòng 10 phút để điều trị đau cho bệnh nhân.
Trong một số trường hợp hiếm gặp, việc dùng thuốc không đạt hiệu quả nên bác sĩ phải dẫn lưu nước tiểu từ thận. Đây gọi là phương pháp giải áp.
Đặt ống thông JJ để đảm bảo nước tiểu có thể chảy qua đường tiết niệu
Có hai phương pháp giải áp:
- Đặt ống thông JJ vào niệu quản qua niệu đạo;
- Đặt ống thông trực tiếp vào thận qua da (dẫn lưu bể thận qua da).
Cả hai phương pháp đều có hiệu quả như nhau.
Ống dẫn lưu bể thận qua da
Khảo sát bao gồm:
- Xét nghiệm nước tiểu để phát hiện nhiễm trùng, máu và tinh thể;
- Xét nghiệm máu để kiểm tra số lượng hồng cầu và tình trạng hoạt động của thận;
- Chẩn đoán hình ảnh: giảm đau khi đã kiểm soát được tình trạng đau cần chụp cắt lớp vi tính (CT) vùng bụng chậu để chẩn đoán sỏi, xác định vị trí, kích thước và tác động của sỏi đến đường tiết niệu. Siêu âm, là khảo sát không xâm lấn được thực hiện nhanh chóng và dễ dàng, cũng là một lựa chọn để chẩn đoán sỏi thận.
Nếu cơn đau quặn thận cấp tính có kèm theo sốt, bệnh nhân sẽ được xét nghiệm máu và nước tiểu để xác định có bị nhiễm trùng hay không. Nếu có nhiễm trùng, bác sĩ thường chỉ định giải áp nước tiểu khẩn cấp bằng ống thông JJ
ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA SAU CƠN ĐAU QUẶN THẬN
Hầu hết bệnh nhân sẽ thải sỏi thận ra ngoài khi đi tiểu mà không gặp bất kỳ khó khăn nào trong vài ngày đến vài tuần. Thời gian đào thải sẽ khác nhau tùy từng trường hợp.
Bệnh nhân có thể hỗ trợ cho quá trình này bằng cách uống thật nhiều nước để tăng lưu lượng nước tiểu và uống thuốc giảm đau thường xuyên theo chỉ định. Bác sĩ cũng có thể chỉ định thuốc “điều trị tống thoát sỏi niệu”. Loại thuốc này, gọi là thuốc chẹn alpha (như dutasteride, tamsulosin và alfuzosine), làm giãn cơ niệu quản giúp thải sỏi thận nhanh hơn và ít đau hơn.
Mỗi lần đi tiểu, bệnh nhân nên cho nước tiểu vào bình. Sau đó đổ nước tiểu từ bình qua lưới lọc vào bồn cầu. Tiếp tục thực hiện cho đến 24 giờ sau khi ngừng đau. Khi đó, nếu sỏi thận có di chuyển từ bàng quang ra ngoài sẽ được phát hiện. Một số sỏi có thể tan ra như hạt cát và đi qua lưới lọc. Trong trường hợp này, bệnh nhân không thể nhìn thấy sỏi. Giữ sỏi lấy được trên lưới lọc và mang đi phân tích có thể giúp ngăn ngừa sự hình thành lại một số loại sỏi. Vì vậy, điều quan trọng là phải xác định được loại sỏi của bệnh nhân.
Cố gắng vận động nhiều nhất có thể vì điều này giúp sỏi thận thải ra ngoài. Không nên nằm trên giường trừ khi đau và không thể đứng dậy. Bệnh nhân có thể thấy nước tiểu có màu đỏ, hồng hoặc nâu. Điều này là bình thường trong quá trình đào thải sỏi thận.
KHI NÀO CẦN ĐẾN BỆNH VIỆN SAU KHI ĐAU QUẶN THẬN
Bệnh nhân nên đến bệnh viện ngay lập tức nếu có:
- Sốt cao từ 38° trở lên;
- Đợt rét run hoặc run rẩy;
- Đau nhiều hơn, đặc biệt đau đột ngột, dữ dội;
- Không thể đi tiểu.
PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ LÂU DÀI
Sau cơn đau quặn thận cấp tính, bệnh nhân sẽ được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa về bệnh đường tiết niệu, gọi là bác sĩ niệu khoa, để quyết định xem có cần khảo sát và điều trị chuyên sâu hay không, bao gồm:
- Tán Sỏi Ngoài Cơ Thể Bằng Sóng Xung Lực (được mô tả trong tài liệu hướng dẫn khác của Bệnh viện FV), dẫn lưu bể thận qua da hoặc nội soi niệu quản: các phương pháp này được chỉ định cho sỏi thận có kích thước quá lớn nên không thể tự đào thải ra ngoài;
- Phân tích loại sỏi;
- Khảo sát để xác định nguyên nhân có thể xảy ra;
- Điều chỉnh biện pháp phòng ngừa theo loại sỏi bao gồm thay đổi chế độ ăn uống.
Nếu đã từng bị sỏi thận, bệnh nhân rất có thể sẽ hình thành sỏi thận mới về sau. Nên uống nhiều nước cho dù có bất kỳ loại sỏi nào:
- Đảm bảo uống 2,5 đến 3 lít mỗi ngày;
- Uống đồng đều trong ngày;
- Uống nhiều hơn nếu sống ở vùng khí hậu nóng hoặc tập thể dục nhiều.